Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Ung thư gan nguyên phát (HCC) có tỷ lệ tử vong cao và thời gian sống ngắn, tiên lượng của bệnh có liên quan đến kích thước khối u và chức năng gan tại thời điểm chẩn đoán và đây cũng là hai yếu tố chính để lựa chọn phương pháp điều trị.

Theo các bác sĩ phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã, bên cạnh chẩn đoán sớm thì điều trị sớm và thích hợp với giai đoạn khối u cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thời gian sống của người bệnh.Một số phương pháp điều trị ung thư gan cơ bản trong điều trị ung thư gan.


Một số phương pháp điều trị ung thư gan thường áp dụng hiện nay
1. Cắt gan
Bệnh nhân ung thư gan lý tưởng còn có thể mổ được là nhờ có một khối hoặc nhiều khối nhưng còn khu trú ở 1 hoặc 2 phân thùy, gan không xơ. Mặc dù hiện nay tiến bộ y học đã phát triển nhưng tỷ lệ tử vong trong mổ còn cao và tỷ lệ tử vong sau mổ cũng cao. Mặc dù các kết quả được báo cáo trên thế giới rất khác nhau, nhưng sau phẫu thuật HCC có tỷ lệ sống 5 năm thực sự và sống sau 5 năm tích lũy vào khoảng 40%.
2. Thắt động mạch gan
Thắt động mạch gan chung hay động mạch gan riêng nhằm mục đích cắt nguồn nuôi dưỡng của khối u. Phẫu thuật nhẹ nhàng, không làm mất máu và dễ thực hiện. Sau mổ, khối u nhỏ lại nhưng ít khi mất hẳn, bệnh nhân ăn đợc, ngủ được, lên cân và giảm đau. Tuy vậy, kết quả thất thường và nhiều bệnh nhân chết trong năm đầu sau mổ.
3. Ghép gan
Ghép gan là phương pháp điều trị triệt để nhất đối với các bệnh nhân HCC trên nền gan xơ, cho phép điều trị đồng thời khối u ở gan và bệnh lý gan xơ. Tuy nhiên do hiện tượng di căn hệ bạch huyết và điều trị giảm miễn dịch nên tỷ lệ tái phát khối u trên gan ghép vẫn rất cao. Chính vì lý do trên mà phần lớn các trung tâm ghép gan cho rằng một khối u lớn hoặc nhiều khối u lan tỏa là một chống chỉ định của ghép gan.
Ghép gan ở bệnh nhân ung thư gan
4. Điều trị hóa chất
Có thể điều trị hóa chất đường toàn thân hoặc tại chỗ. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ có 20% HCC đáp ứng với điều trị hóa chất theo đờng toàn thân (dùng đơn độc hoặc phối hợp) và phương pháp này không gây ra sự thoái triển trên toàn khối u. 
5. Tiêm cồn vào khối u qua da
Tiêm cồn (ethanol) vào khối u qua da PEIT (percutaneous ethanol injection therapy) là một phương pháp điều trị ung thư nguyên phát và thứ phát có kích thớc nhỏ, số lượng khối ít, không còn khả năng phẫu thuật hoặc từ chối phẫu thuật. Ethanol có tác dụng làm mất nước, hoại tử đông tế bào, hoại tử, tắc mạch và xơ hóa khối u.
6. Đốt sóng cao tần RFA
Đốt sóng cao tần RFA (radio-frequency ablation) là phương pháp phá hủy nhu mô khối u bằng nhiệt của dòng điện dao động với tần số 400-500 kHz. Người ta đặt một điện cực ở trung tâm khối u và duy trì nhiệt độ phá hủy từ 60 -100°C.
Nếu nhiệt độ > 100°C thì điện trở của mô tăng và cản trở sự tỏa nhiệt trong tổn thương, nên người ta phải bơm nước muối sinh lý để dẫn nhiệt. Phương pháp có chỉ định tốt với các khối u nhỏ hơn 3cm. Với các khối u lớn hơn, phải dùng hai kim một điện cực hoặc kim có chùm 3 điện cực. Kết quả theo nhiều tác giả rất khả quan, tuy nhiên phải theo dõi và làm nhiều lần. Hiện nay có xu hớng kết hợp với nút hoá chất động mạch gan.
7. Các phương pháp điều trị qua đường động mạch gan
Mục đích của phương pháp là đa trực tiếp các hóa chất chống ung thư với độ tập trung cao hơn cho vùng ung thư và làm giảm tác dụng phụ của thuốc đối với các cơ quan khác.
Ung thư gan là căn bệnh rất nguy hiểm, gây tử vong cao. Tuy nhiên, nếu người bệnh được phát hiện sớm và có phương pháp điều trị phù hợp thì bệnh tình có thể thuyên giảm được. Tốt nhất nên đi kiểm tra sức khỏe định kỳ để có thể phát hiện bệnh sớm nhất, tránh để bệnh tình quá nặng mà có biến chứng xấu xảy ra. Đó là lời khuyên của các bác sĩ phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã.
 Bấm tại đây để biết thêm thông tin về bệnh
Next
Bài đăng Mới hơn
Previous
This is the last post.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét